Một số giải pháp nâng cao chất lượng kiểm sát bản án hình sự sơ thẩm để thực hiện quyền kiến nghị, kháng nghị của Viện kiểm sát

Kháng nghị, kiến nghị đối với vi phạm của các Cơ quan tố tụng nói chung và Tòa án nói riêng là một trong những chức năng, nhiệm vụ quan trọng của Viện kiểm sát, được Hiến pháp, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) quy định, nhằm đảm bảo việc giải quyết các vụ án hình sự đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Luật Tổ chức VKSND năm 2014 quy định rất cụ thể trường hợp nào VKSND ban hành kháng nghị và trường hợp nào VKSND ban hành kiến nghị. Khi nhận được kháng nghị, kiến nghị của VKSND thì các Cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm thực hiện kháng nghị, kiến nghị đó. Tại Điều 9 Luật Tổ chức VKSND năm 2014 đã quy định quyền và trách nhiệm của Cơ quan, tổ chức, cá nhân đối với hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Theo đó, Cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành các quyết định, yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị của VKSND; có quyền kiến nghị, khiếu nại, tố cáo các hành vi, quyết định trái pháp luật của VKSND, VKSND phải giải quyết, trả lời theo quy định của pháp luật. Khi có căn cứ cho rằng hành vi, quyết định của VKSND không có căn cứ, trái pháp luật thì Cơ quan điều tra, Cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra, Tòa án và Cơ quan thi hành án có quyền kiến nghị, yêu cầu VKSND xem xét lại. VKSND phải giải quyết, trả lời theo quy định của pháp luật. Nghiêm cấm Cơ quan, tổ chức, cá nhân cản trở, can thiệp vào hoạt động thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND; lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống cán bộ, công chức, viên chức và người lao động khác của VKSND. Đồng thời, Điều 10 Luật TCVKSND năm 2014 quy định giám sát hoạt động của VKSND. Quốc hội, các Cơ quan của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận giám sát hoạt động của VKSND theo quy định của pháp luật.
Quyền kháng nghị phúc thẩm vụ án hình sự của VKSND được quy định tại Điều 41, điểm d khoản 1 Điều 266, khoản 5 Điều 267, khoản 1 Điều 336, khoản 1 Điều 342 Bộ luật tố tụng hình sự (BLTTHS) và điểm k khoản 3 Điều 3, điểm d khoản 3 Điều 4, khoản 1 Điều 5, khoản 3 Điều 18, khoản 5 Điều 19 Luật tổ chức VKSND năm 2014.
Thực tiễn pháp luật chưa có khái niệm chính thống về “kháng nghị phúc thẩm hình sự”, nhưng xuất phát từ nguyên tắc cơ bản trong Tố tụng hình sự nước ta đó là bảo đảm hai cấp xét xử, Bộ luật Tố tụng hình sự và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân thì được hiểu“Kháng nghị phúc thẩm hình sự là quyền năng pháp lý được Nhà nước giao cho Viện kiểm sát để kháng nghị những bản án, quyết định hình sự sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật của Tòa án cùng cấp và cấp dưới trực tiếp khi phát hiện có vi phạm pháp luật nghiêm trọng để yêu cầu Tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm nhằm bảo đảm việc xét xử đúng pháp luật, nghiêm minh và kịp thời”.
Quyền kháng nghị được VKSND thực hiện khi phát hiện hành vi, bản án, quyết định của Cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì VKSND phải kháng nghị. Khi nhận được kháng nghị của VKSND Cơ quan, người có thẩm quyền phải giải quyết kháng nghị của VKSND theo quy định của pháp luật.
Tương tự “quyền kiến nghị được VKSND thực hiện khi phát hiện hành vi, quyết định của Cơ quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật ít nghiêm trọng không thuộc trường hợp kháng nghị nêu trên thì VKSND phải kiến nghị Cơ quan, tổ chức, cá nhân đó khắc phục vi phạm pháp luật và xử lý nghiêm minh người vi phạm pháp luật; nếu phát hiện sơ hở, thiếu sót trong hoạt động quản lý thì kiến nghị Cơ quan, tổ chức hữu quan khắc phục và áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm”. Khi nhận được kiến nghị của VKSND Cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan có trách nhiệm xem xét, giải quyết, trả lời kiến nghị của VKSND theo quy định của pháp luật.
Ở phạm vi bài viết tác giả nêu một số nhận diện vi phạm thường gặp và một số giải pháp nâng cao kỹ năng kiểm sát bản án hình sự sơ thẩm phát hiện vi phạm để thực hiện quyền kháng nghị, kiến nghị của Viện kiểm sát.
Trong thực tiễn quá trình kiểm sát bản án hình sự sơ thẩm thấy vẫn bộc lộ nhiều hạn chế như: chất lượng, hiệu quả công tác nghiên cứu bản án hình sự sơ thẩm chưa cao, vẫn còn có những vi phạm chưa kịp phát hiện để thực hiện quyền kiến, kháng nghị nên số lượng, chất lượng kiến kháng nghị còn chưa cao, chưa đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp. Trước yêu cầu thực tiễn một trong những nhiệm vụ quan trọng của Kiểm sát viên cần phải quan tâm nâng cao chất lượng kiểm sát bản án hình sự sơ thẩm từ đó phát hiện vi phạm thực hiện quyền kiến, kháng nghị của Viện kiểm sát để nâng cao uy tín của ngành Kiểm sát nói chung cũng như khắc phục những vi phạm thiếu sót của Toà án đảm bảo thượng tôn pháp luật. Bởi bản án hình sự sơ thẩm là quyết định của HĐXX tại phiên xử lần đầu nhưng có ý nghĩa rất quan trọng trong quá trình giải quyết xét xử một vụ án, kiểm sát tốt bản án sơ thẩm cho thấy vai trò của Viện kiểm sát trong Tố tụng hình sự được khẳng định và nâng cao.
Để thực hiện việc kiểm sát bản án hình sự sơ thẩm trước hết cần nhận diện đầy đủ các dạng vi phạm thường gặp như:
Vi phạm về luật nội dung: Bỏ lọt tội phạm, người phạm tội, thường xảy ra trong vụ án đồng phạm, Cơ quan tố tụng có thể bỏ lọt không truy cứu người giúp sức, người thực hiện, người xúi giục, thậm chí cả người chủ mưu, cầm đầu; bỏ lọt tội danh khi một người có nhiều hành vi phạm tội, phạm vào nhiều tội danh khác nhau nhưng Cơ quan tố tụng không xem xét, truy cứu hết các tội danh đó; bỏ lọt hành vi phạm tội khi đối tượng thực hiện nhiều hành vi phạm tội nhưng Cơ quan tố tụng chỉ điều tra, truy tố, xét xử một số hành vi, còn bỏ sót một số hành vi. Vi phạm về định tội danh: kết án người không phạm tội, kết án về tội danh nặng hơn, nhẹ hơn hoặc tội danh ngang bằng nhưng không đúng với tội danh bị cáo thực hiện. Vi phạm về áp dụng khung, mức hình phạt: Tòa án áp dụng khung hình phạt nặng hơn hoặc nhẹ hơn tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo. Trường hợp xử khung hình phạt nhẹ hơn còn có tình trạng Tòa án áp dụng một khung hình phạt, sau đó áp dụng quy định về việc xử dưới khung hình phạt, nhưng thực tế là bị cáo không đủ điều kiện để được xử dưới khung hình phạt đó. Việc áp dụng sai khung hình phạt như trên thường dẫn đến hình phạt quá nặng hoặc quá nhẹ. Còn có trường hợp Tòa án áp dụng đúng khung hình phạt, nhưng quyết định mức hình phạt cụ thể lại không phù hợp. Vi phạm về phạt tù cho hưởng án treo: Trên thực tế, có những bản án cho bị cáo hưởng án treo khi không đủ các điều kiện quy định tại Bộ luật Hình sự và hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Vi phạm về áp dụng loại hình phạt: Điều 32 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về 14 loại hình phạt, trong đó có 07 hình phạt chính và 07 hình phạt bổ sung. Mỗi loại hình phạt được áp dụng với một hoặc một số trường hợp phạm tội nhất định, Tòa án được coi là vi phạm khi áp dụng không đúng trường hợp do luật định. Vi phạm về tổng hợp hình phạt: Là các trường hợp không tổng hợp hình phạt của nhiều bản án; không tổng hợp phần còn lại của bản án đang được thi hành; không trừ thời hạn tạm giữ, tạm giam của bị cáo; không tổng hợp với hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo của bản án đang chấp hành theo đúng quy định của Bộ luật Hình sự; tổng hợp hình phạt không chính xác về thời gian chấp hành do nhầm lẫn về số liệu. Vi phạm về xác định trách nhiệm dân sự: Là các trường hợp Tòa án xác định trách nhiệm bồi thường đối với bị cáo quá cao hoặc quá thấp; không xác định trách nhiệm bồi thường, bồi hoàn hoặc hoàn trả; không xác định đúng người có nghĩa vụ và người có quyền được hưởng lợi theo luật định. Vi phạm về áp dụng các quy định của pháp luật thuộc lĩnh vực chuyên ngành (như kinh tế, tài chính, ngân hàng, xây dựng, hải quan, quản lý đất đai, quản lý, bảo vệ, khai thác lâm sản, y tế, giáo dục), từ đó không tìm được hoặc tìm không đúng văn bản, quy định cần áp dụng, dẫn đến xét xử không đúng luật định, ảnh hưởng đến việc xác định trách nhiệm hình sự, dân sự của các bên tham gia tố tụng. Vi phạm về quyết định biện pháp tư pháp như: Quyết định không tịch thu công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội hoặc ngược lại là tịch thu công cụ, phương tiện khi không chứng minh được bị cáo dùng vào việc phạm tội.
Vi phạm về luật tố tụng: Như vi phạm về thẩm quyền giải quyết vụ án: Trường hợp này xảy ra không nhiều trong thực tế, có thể là việc truy tố của Viện kiểm sát và việc xét xử của Tòa án không đúng thẩm quyền giữa Tòa án quân sự với Tòa án nhân dân hoặc thẩm quyền theo lãnh thổ (nếu vụ án xảy ra ở nhiều nơi hoặc ở nơi không có bị cáo hoặc không có bị hại); hoặc việc Tòa án xét xử vượt quá giới hạn mà Viện kiểm sát đã truy tố. Thu thập chứng cứ không hợp pháp, không đầy đủ, không khách quan. Vi phạm này dẫn đến chứng cứ không rõ, mâu thuẫn, không thể hiện rõ các vấn đề cần chứng minh của vụ án (như không lấy đầy đủ lời khai của người làm chứng, chỉ lấy lời khai của người làm chứng có lợi cho một hoặc một số bên, không thu thập đầy đủ vật chứng, dấu vết, dữ liệu điện tử…). Sử dụng, đánh giá chứng cứ không chính xác: Việc sử dụng, đánh giá chứng cứ không đúng bản chất của vụ án sẽ dẫn đến quan điểm xử lý vụ án không phù hợp (như chỉ sử dụng chứng cứ có lợi cho bị cáo, bỏ qua nhiều chứng cứ bất lợi, hoặc chỉ sử dụng chứng cứ bất lợi cho bị cáo, bỏ qua chứng cứ có lợi). Điều này dẫn đến việc đánh giá không đúng tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo, áp dụng hình phạt quá nhẹ hoặc quá nặng. Không thực hiện hoặc thực hiện không đúng các thủ tục tố tụng cần thiết theo luật định dẫn đến tình trạng không đủ các thông tin, chứng cứ cần thiết để đánh giá toàn diện vụ án. Không chỉ định, không tạo điều kiện đầy đủ cho người bào chữa tham gia các hoạt động tố tụng, khiến hoạt động tố tụng không đảm bảo tính khách quan. Mớm cung, bức cung, dùng nhục hình. Xác định không đúng tư cách người tham gia tố tụng: Thường xảy ra các trường hợp nhầm lẫn khi xác định người bị hại với người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan với người làm chứng; thậm chí giữa bị can với bị hại. Vi phạm trong việc lập biên bản điều tra: Thu giữ tài liệu, đồ vật không lập biên bản thu giữ; biên bản khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi, thực nghiệm điều tra không ghi chép đầy đủ, rõ ràng các thông tin cần thiết; biên bản hỏi cung ghi chép không đúng lời khai của bị can; các biên bản điều tra bị tẩy xóa, sửa chữa câu chữ không có xác nhận của người tham gia tố tụng… Vi phạm trong việc tách vụ án như: Một hoặc nhiều bị can có nhiều hành vi phạm tội có liên quan đến nhau nhưng Cơ quan tố tụng lại tách ra thành vụ án khác để xử lý sau, dẫn đến việc đánh giá không chính xác và toàn diện tính chất, mức độ hành vi phạm tội của các bị can, thậm chí còn bỏ lọt tội phạm, vì sau khi vụ án được tách ra có thể không được tiếp tục điều tra, giải quyết. Vi phạm trong xử lý vật chứng: Có những trường hợp vật chứng của vụ án không được thu thập đầy đủ, kịp thời, không bảo quản đúng quy định, dẫn đến không đảm bảo giá trị chứng minh; vật chứng có giá trị chứng minh trong vụ án, cần thu giữ nhưng không thu giữ hoặc có thu giữ nhưng lại trả ngay cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp, dẫn đến khó khăn trong việc xác định sự thật của vụ án. Vi phạm trong việc tống đạt, giao nhận văn bản tố tụng: Việc giao, nhận, tống đạt văn bản tố tụng giữa các Cơ quan tố tụng với nhau, giữa Cơ quan tiến hành tố tụng với người tham gia tố tụng nhiều trường hợp chưa đúng luật định, chưa đầy đủ và kịp thời, dẫn đến việc người tham gia tố tụng không có điều kiện bảo vệ các quyền lợi hợp pháp của mình, không có thêm chứng cứ để chứng minh các vấn đề của vụ án. Vi phạm trong việc xây dựng bản án, quyết định của Tòa án: Là trường hợp bản án diễn đạt sai nội dung vụ án, ghi nhận sai về các chứng cứ tài liệu của vụ án, nhận xét, đánh giá sai dẫn đến quyết định sai về vụ án.
Để thực hiện tốt việc kiểm sát bản án phát hiện vi phạm để thực hiện quyền kháng nghị, kiến nghị cần:
Thứ nhất: Chủ động phát hiện vi phạm qua phối hợp với Tòa án trong giai đoạn xét xử: Kiểm sát viên cần chủ động theo dõi, phát hiện vi phạm ngay từ giai đoạn chuẩn bị xét xử đến khi xét xử và sau xét xử, nghiên cứu kỹ, thực hiện đầy đủ các Quy chế số 505/2017 và hướng dẫn hằng năm của VKSND tối cao về khâu công tác này. Sau khi chuyển hồ sơ vụ án sang Tòa án, Kiểm sát viên thông qua Thẩm phán chủ tọa phiên tòa và các kênh thông tin khác nắm chắc tình hình, diễn biến quá trình xử lý vụ án của Tòa án để phát hiện các vi phạm về hành vi, quyết định tố tụng, vi phạm về luật nội dung, luật tố tụng để kháng nghị hoặc kiến nghị. Trong đó, có các vấn đề như: về thẩm quyền xét xử của Tòa án (từ Điều 268 đến 273 BLTTHS); thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm (Điều 277 BLTTHS); việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế (Điều 278 BLTTHS); việc giải quyết yêu cầu, đề nghị trước khi mở phiên tòa (Điều 279 BLTTHS); việc giao, gửi quyết định của Tòa án cấp sơ thẩm (Điều 286 BLTTHS).
Trường hợp Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử (Điều 255 BLTTHS) kiểm sát viên lưu ý thành phần Hội đồng xét xử; thành phần những người được Tòa án triệu tập đến phiên tòa, phát hiện có vi phạm (như thành viên Hội đồng xét xử, người giám định, người định giá tài sản là người có quan hệ gia đình với bị cáo, bị hại, người tham gia tố tụng cần thiết cho việc làm rõ vụ án nhưng không được triệu tập) để kiến nghị hoặc yêu cầu xử lý.
Quá trình xét xử, Kiểm sát viên kiểm sát việc điều hành của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa, việc chấp hành pháp luật, nội quy phiên tòa của người tiến hành và người tham gia tố tụng; nếu phát hiện vi phạm thì yêu cầu sửa chữa ngay. Sau khi phiên tòa kết thúc, Kiểm sát viên tập trung kiểm sát biên bản phiên tòa, việc ban hành và gửi các bản án cho Viện kiểm sát và những thành phần liên quan theo đúng luật định.
Thứ hai: Kiểm sát chặt chẽ biên bản phiên tòa đối chiều với quy định tại Điều 258 BLTTHS quy định về Biên bản phiên toà, thông qua việc thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử tại phiên tòa, Kiểm sát viên phải chú ý theo dõi, nắm rõ diễn biến phiên tòa, cơ bản xác định được các nội dung sẽ được thể hiện tại biên bản phiên tòa. Yêu cầu của việc kiểm sát biên bản phiên tòa là kiểm sát hình thức, nội dung của biên bản phiên tòa, trong đó có thành phần người tiến hành, người tham gia tố tụng, thủ tục bắt đầu, thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa và những nội dung khác, việc hoãn phiên tòa của Tòa án...Sau khi kiểm tra biên bản phiên tòa, Kiểm sát viên phải lập phiếu kiểm sát theo mẫu, phản ánh rõ các vi phạm (nếu có) và đề xuất xử lý. Kiểm sát viên đánh giá về các vi phạm được phát hiện, từ đó có đề xuất biện pháp xử lý cho phù hợp với tính chất, mức độ vi phạm, như yêu cầu chỉnh sửa, bổ sung vào biên bản phiên tòa, kiến nghị Tòa án sửa chữa hoặc kháng nghị khi có vi phạm nghiêm trọng.
Thứ ba: Qua kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án: Theo Điều 262 BLTTHS năm 2015 thì Tòa án phải giao bản án sơ thẩm cho Viện kiểm sát cùng cấp và gửi Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Các Điều 30, 52 Quy chế công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử vụ án hình sự ban hành kèm theo Quyết định số 505/QĐ-VKSTC ngày 15/12/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (Quy chế số 505/2017) và Hướng dẫn số 27/HD-VKSTC ngày 17/9/2020 về phối hợp kiểm sát việc Tòa án giao, gửi bản án… hướng dẫn cụ thể về công tác kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án.
Kiểm sát viên nghiên cứu kịp thời, không để xảy ra tình trạng bản án, quyết định có vi phạm cần kháng nghị song không kháng nghị được vì quá hạn luật định. Đối với các quyết định bắt tạm giam, trả tự do cho bị cáo; quyết định tạm đình chỉ, đình chỉ vụ án; thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, định giá, phiên dịch, dịch thuật, hoãn phiên tòa, đình chỉ xét xử (thường có nội dung đơn giản), Kiểm sát viên cần xem xét thẩm quyền, thủ tục, căn cứ ban hành các quyết định đó có đúng quy định của pháp luật hay không. Về mặt nguyên tắc, nội dung bản án phải dựa trên cơ sở kết quả tranh tụng tại phiên tòa. Nội dung bản án có thể đơn giản hoặc phức tạp tùy theo từng vụ án, song ngoài các phần có tính thủ tục, bản án sơ thẩm thường có các phần: Nội dung vụ án; ghi nhận về chứng cứ; nhận xét, đánh giá; quyết định của Tòa án.
Phần nội dung vụ án đã được Kiểm sát viên nắm chắc trong quá trình kiểm sát điều tra, kiểm sát xét xử tại phiên tòa và được thể hiện trong kết luận điều tra của Cơ quan điều tra và cáo trạng của Viện kiểm sát. Thực tế ở phần này, bản án thường thể hiện thống nhất như kết luận điều tra hoặc cáo trạng, trừ trường hợp bị diễn đạt không phù hợp với diễn biến của vụ án. Kiểm sát viên lưu ý những đoạn Tòa án mô tả khác với kết luận điều tra hoặc cáo trạng. Kiểm sát viên xem xét cách mô tả đó của Tòa án có đúng, phù hợp với thực tế, tình tiết, diễn biến cụ thể của vụ án hay không. Về phần ghi nhận các chứng cứ và ý kiến đánh giá của các bên tại phiên tòa, ý kiến, quan điểm, lập luận của các bên tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng, về tất cả các vấn đề liên quan đến vụ án, từ trách nhiệm hình sự, dân sự của bị cáo đến quyền lợi và nghĩa vụ của các bên, Kiểm sát viên cần xem xét, xác định Tòa án có ghi nhận đúng về các chứng cứ và ý kiến của các bên tham gia phiên tòa hay không. Về phần nhận xét, đánh giá của Hội đồng xét xử: Đây là phần Kiểm sát viên cần lưu ý xem xét nhất. Vi phạm thường do mô tả sai nội dung vụ án, ghi nhận sai chứng cứ được kiểm tra tại phiên tòa hoặc ý kiến, lập luận của các bên, dẫn đến Tòa án phán quyết không đúng quy định của pháp luật. Ngay khi nghiên cứu, xem xét cách Tòa án mô tả nội dung vụ án, cách ghi nhận chứng cứ trong bản án, Kiểm sát viên có thể biết được quan điểm và cách lập luận của Tòa án sau đó. Kiểm sát viên phải nghiên cứu, xem xét kỹ lập luận của Tòa án trên các khía cạnh: Lập luận đó có căn cứ, bám sát vào các tình tiết của vụ án hay không; có ghi nhận, mô tả, sử dụng và đánh giá chính xác các chứng cứ của vụ án không; chứng cứ từ tất cả các nguồn: Lời khai của người tham gia tố tụng, vật chứng, dấu vết, kết luận giám định, định giá tài sản, biên bản tố tụng, dữ liệu điện tử, kết quả thực hiện ủy thác tư pháp và hợp tác quốc tế, tài liệu, đồ vật khác. Phần quyết định của bản án (bao gồm quyết định về hình sự, dân sự và các nội dung khác): Đây là phần có giá trị pháp lý của bản án và là kết quả của phần nhận xét, đánh giá của Tòa án. Tuy nhiên, việc xem xét, đánh giá bản án cần tập trung vào phần nhận định. Bởi lẽ, vi phạm thường xảy ra khi Tòa án mô tả sai nội dung vụ án, ghi nhận sai các chứng cứ và ý kiến của các bên về chứng cứ; nhưng cũng có trường hợp Tòa án diễn đạt đúng nội dung vụ án, ghi nhận đúng các chứng cứ, ý kiến, lập luận của các bên, song Tòa án lại có đánh giá, lập luận khác biệt về chứng cứ, dẫn đến phán quyết không đúng.
Thứ tư: Thông qua nghiên cứu hồ sơ vụ án, tiến hành xác minh: Kiểm sát viên nắm được hồ sơ vụ án rà soát, nắm chắc lại vụ án, nhất là những vấn đề có liên quan đến vi phạm cần xem xét. Trên cơ sở đó, kết hợp với việc nghiên cứu biên bản phiên tòa, bản án của Tòa án, đơn kháng cáo của người tham gia tố tụng, xác định rõ vi phạm trong bản án, quyết định của Tòa án, Kiểm sát viên báo cáo đề xuất lãnh đạo Viện kháng nghị, kiến nghị đối với bản án sơ thẩm hoặc đề nghị Viện kiểm sát cấp trên kháng nghị đối với bản án sơ thẩm của Tòa án cùng cấp.
Các vi phạm về tố tụng chủ yếu được thể hiện trong hồ sơ vụ án, vì trong đó có toàn bộ tài liệu, văn bản tố tụng, thể hiện các hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án. Kiểm sát viên cần nghiên cứu việc thực hiện các thủ tục tố tụng của cơ quan và người tiến hành tố tụng, từ khi thụ lý, xử lý tin báo, tố giác tội phạm, khởi tố, điều tra vụ án, khởi tố bị can đến khi hoàn thành việc xét xử vụ án; tập trung nghiên cứu, xem xét, đối chiếu hành vi, quyết định tố tụng với quy định cụ thể của pháp luật để xác nhận, kết luận về vi phạm.
Trong lĩnh vực TTHS công tác kiến nghị, kháng nghị trong xét xử vụ án hình sự là một trong những hoạt động thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Viện kiểm sát nhân dân. Để nâng cao chất lượng công tác này, đòi hỏi Kiểm sát viên cần quán triệt, nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng; nắm vững các dạng vi phạm của Tòa án từ đó đề xuất Lãnh đạo ban hành kiến nghị, kháng nghị kịp thời./.

--- Bùi Thu - Phòng 7 VKS tỉnh ---