MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG THỰC HIỆN QUYỀN YÊU CẦU CỦA VIỆN KIỂM SÁT TRONG TỐ TỤNG DÂN SỰ

 Quyền yêu cầu là một trong những quyền năng pháp lý quan trọng của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự, thể hiện sự chủ động trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành và là một trong những căn cứ để Viện kiểm sát thực hiện các quyền tiếp theo như quyền kiến nghị, kháng nghị.

Quá trình thực hiện nhiệm vụ công tác, thấy rằng: mặc dù Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã có quy định cụ thể, đặc biệt là Thông tư 02/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 31/8/2016 quy định việc phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án nhân dân trong việc thi hành một số quy định của Bộ luật tố tụng dân sự đã quy định cụ thể, đầy đủ hơn về quyền yêu cầu của Viện kiểm sát. Tuy nhiên, quá trình thực hiện những quy định này vẫn còn một số khó khăn, vướng mắc. Cụ thể:
- Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định Viện kiểm sát có quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ nhưng không quy định trách nhiệm của Tòa án trong việc thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát. Tại Điều 22 Thông tư liên tịch số 02 ngày 31/8/2016 đã quy định trách nhiệm của Tòa án khi thực hiện quyền yêu cầu, đó là: “Trường hợp việc xác minh, thu thập chứng cứ theo yêu cầu của Kiểm sát viên là không thể thực hiện được hoặc Tòa án xét thấy không cần thiết thì chậm nhất là đến ngày hết thời hạn mở phiên tòa, phiên họp theo quyết định của Tòa án, Tòa án thông báo cho Kiểm sát viên bằng văn bản và nêu rõ lý do”. Tuy nhiên trên thực tế, một số yêu cầu của Viện kiểm sát không được thực hiện hoặc thực hiện không triệt để nhưng Tòa án cũng không có văn bản phản hồi ý kiến, lý do của việc không thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát, dẫn đến Kiểm sát viên bị động trong quá trình nghiên cứu hồ sơ để đề xuất hướng giải quyết, báo cáo án với Lãnh đạo, tham gia phiên tòa.
- Theo quy định tại Điều 220 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì Tòa án phải gửi hồ sơ vụ án cùng với việc gửi Quyết định đưa vụ án ra xét cho Viện kiểm sát cùng cấp nghiên cứu, trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án, Viện kiểm sát phải trả lại hồ sơ vụ án cho Tòa án. Như vậy, trong thời hạn 15 ngày, Kiểm sát viên được phân công kiểm sát việc giải quyết vụ án phải nghiên cứu kỹ hồ sơ, kiểm tra đánh giá tính hợp pháp, tính có căn cứ của các tài liệu, chứng cứ do các bên đương sự cung cấp hoặc do Thẩm phán thu thập cũng như toàn bộ nội dung vụ việc. Do đó, thường thì văn bản yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ sẽ gửi cho Tòa án khi gần hoặc đã hết thời hạn 15 ngày và gửi kèm theo hồ sơ trả cho Tòa án, thời điểm đó đã có quyết định đưa vụ án ra xét xử nên việc tiến hành thu thập thêm tài liệu, chứng cứ, nhất là những vụ việc phức tạp đối với Tòa án lại càng khó khăn và nhiều trường hợp không thể thực hiện kịp. Nếu thẩm phán thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát thì sẽ không đưa vụ án ra xét xử đúng lịch đã ban hành, nếu vẫn đưa vụ án ra xét xử thì các nội dung Viện kiểm sát yêu cầu thu thập chưa được làm rõ.
- Về công tác phối hợp với Tòa án trong thực hiện quy định pháp luật tố tụng dân sự về quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ: Do số lượng vụ việc thụ lý nhiều, áp lực công việc lớn, một số Thẩm phán khi Viện kiểm sát thực hiện quyền yêu cầu có thái độ không bằng lòng, cho rằng Viện kiểm sát không phối hợp với Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án.
- Viện kiểm sát nhân dân Tối cao chưa có văn bản hướng dẫn thực hiện, chưa xây dựng các chuyên đề hoặc tổ chức tập huấn chuyên sâu về thực hiện “quyền yêu cầu” nên trong quá trình thực hiện còn nhiều lúng túng và nảy sinh một số khó khăn, vướng mắc.
Để nâng cao chất lượng thực hiện quyền yêu cầu của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự, cần phải thực hiện tốt các giải pháp sau:
- Đối với công tác quản lý, chỉ đạo điều hành
+ Lãnh đạo đơn cần vị tiếp tục quán triệt, triển khai những văn bản quy phạm pháp luật như Bộ luật tố tụng dân sự, Bộ luật dân sự, Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, đặc biệt quán triệt nội dung Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/8/2016 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao; Quy chế của Viện kiểm sát nhân dân tối cao về công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự (ban hành kèm theo quyết định số 364/QĐ-VKSTC ngày 02/10/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao)... đến những công chức làm công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự.
+ Chú trọng công tác bồi dưỡng, đào tạo những Kiểm sát viên trẻ tuổi có năng lực để tạo nguồn.
+ Việc phân công Kiểm sát viên phải phù hợp với tính chất, mức độ phức tạp của từng vụ án, kinh nghiệm, sở trường công tác của từng Kiểm sát viên. Chỉ đạo các Kiểm sát viên thực hiện đúng quy chế, quy trình công tác.
+ Thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra tiến độ thực hiện nhiệm vụ của Kiểm sát viên được phân công tham gia phiên tòa. Đối với những vụ án phức tạp thì Lãnh đạo đơn vị cần trực tiếp nghiên cứu hồ sơ vụ án để có chỉ đạo chính xác, cụ thể và đúng theo quy định của pháp luật. Tránh tình trạng giao khoán trắng cho Kiểm sát viên, chỉ nghe báo cáo án mà không trực tiếp xem hồ sơ dễ dẫn đến chỉ đạo không đúng, không đầy đủ.
+ Lãnh đạo đơn vị tổ chức quán triệt để Kiểm sát viên, Kiểm tra viên, chuyên viên nắm được những tồn tại, hạn chế trong việc thực hiện quyền yêu cầu của Viện kiểm sát đã nêu trong đề tài này để Kiểm sát viên, Kiểm tra viên nhận diện nhằm rút kinh nghiệm, rèn luyện được các kỹ năng cần thiết khi thực hiện công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự nói chung và kỹ năng thực hiện quyền yêu cầu nói riêng để các yêu cầu của Viện kiểm sát ngày càng đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả hơn.
+ Hằng năm, Lãnh đạo đơn vị lấy kết quả công tác kiểm sát giải quyết các vụ việc dân sự nói chung và công tác thực hiện quyền yêu cầu, kiến – kháng nghị nói riêng để đánh giá, xét thi đua ngắn hạn, thi đua cuối năm. Đồng thời, kịp thời khen thưởng, biểu dương đối với những Kiểm sát viên thực hiện tốt công tác này, bên cạnh đó cũng phê bình, kiểm điểm đối với những Kiểm sát viên thực hiện chưa tốt
- Đối với bản thân cán bộ, Kiểm sát viên.
+ Thứ nhất, Cán bộ, Kiểm sát viên khi được phân công kiểm sát giải quyết án dân sự phải thật sự nhiệt tình với công việc, có ý thức trách nhiệm đối với nhiệm vụ được giao, chịu khó nghiên cứu, trau dồi kiến thức chuyên môn nghiệp vụ để phục vụ công tác. Quá trình nghiên cứu hồ sơ, Kiểm sát viên phải lập hồ sơ kiểm sát theo đúng Quy chế công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ việc dân sự (ban hành kèm theo quyết định số 364/QĐ-VKSTC ngày 02/10/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao); Bên cạnh đó, Kiểm sát viên cần có phương pháp nghiên cứu khoa học để tổng hợp, phân tích, đánh giá chứng cứ, tài liệu trong hồ sơ vụ án một cách khách quan, toàn diện. Đặc biệt, Kiểm sát viên cần tăng cường trích cứu hồ sơ vì chỉ có trích cứu mới giúp Kiểm sát viên nắm bắt kỹ được nội dung của từng tài liệu, xác định được những tài liệu nào là tài liệu làm căn cứ chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu khởi kiện; mới phát hiện chính xác được hồ sơ Tòa án thu thập đã đầy đủ chưa, còn thiếu những tài liệu gì, trên cơ sở đó để đề ra yêu cầu thu thập, bổ sung chứng cứ chính xác, đầy đủ.
+ Thứ hai, KSV cần tăng cường tích lũy kinh nghiệm, nâng cao kỹ năng công tác: hiện nay, Viện Kiểm sát nhân dân cấp cao và Viện Kiểm sát nhân dân tối cao rất chú trọng công tác thông báo rút kinh nghiệm đối với các vụ án dân sự bị hủy hoặc sửa cơ bản. Những thông báo rút kinh nghiệm này là những tài liệu quý giá, là cẩm nang cho mỗi Kiểm sát viên trong thực hiện nhiệm vụ. Do vậy, khi cấp trên có văn bản rút kinh nghiệm thì Kiểm sát viên cần tập hợp lại, nghiên cứu kỹ, rút ra những dạng vi phạm của Tòa án, những thiếu sót của Viện kiểm sát ... để nâng cao khả năng nhận diện vi phạm trong quá trình nghiên cứu hồ sơ, tham gia phiên tòa nhằm thực hiện tốt hơn quyền yêu cầu nói riêng và thực hiện tốt nhiệm vụ kiểm sát việc giải quyết vụ án dân sự nói chung.
+ Thứ ba, nắm chắc các quy định của pháp luật và các văn bản có liên quan: Do việc giải quyết các vụ dân sự có liên quan đến nhiều loại văn bản pháp luật: trong lĩnh vực đất đai, Luật nhà ở, Bộ luật dân sự, Luật lao động, ...Những văn bản có liên quan đến quyền sử dụng đất, quyền sở hữu tài sản thì đa dạng, tồn tại trong thời gian dài... Chính vì vậy, mỗi Kiểm sát viên cần thường xuyên cập nhật văn bản pháp luật; có phương pháp nghiên cứu, hệ thống, lưu giữ các văn bản pháp luật có liên quan để nắm vững và tra cứu, vận dụng trong công tác.
+ Thứ tư, chú trọng chất lượng bản yêu cầu xác minh, thu thập chứng cứ: Khi thực hiện quyền yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ phải đảm bảo 2 yếu tố: Cần và đủ (cần thiết cho việc giải quyết vụ án; đủ để đánh giá chứng cứ). Bản yêu cầu phải chặt chẽ, ngắn gọn, cụ thế, dễ hiểu để thuận lợi cho Thẩm phán trong việc thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát.
- Đối với công tác phối hợp.
+ Về quan hệ phối hợp trong ngành: Tiếp tục phối hợp, thường xuyên trao đổi nghiệp vụ với Phòng nghiệp vụ Viện tỉnh khi có những khó khăn, vướng mắc. Đối với những vụ án phức tạp hoặc có nhiều quan điểm về hướng giải quyết vụ án hoặc có vướng mắc trong áp dụng pháp luật thì kịp thời xin ý kiến thỉnh thị của Viện kiểm sát cấp trên để có hướng dẫn, chỉ đạo nhằm giải quyết vụ án đúng quy định của pháp luật, kịp thời thực hiện các quyền yêu cầu của Viện kiểm sát để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Thực hiện tốt chế độ thông tin, báo cáo trong ngành và sau các phiên tòa. Viện kiểm sát cấp dưới phải báo cáo ngay kết quả xét xử cho Viện kiểm sát cấp trên sau khi phiên tòa kết thúc, lập phiếu kiểm sát đối với các bản án, quyết định của Tòa án và gửi cho Viện kiểm sát cấp trên trong thời hạn luật định để Viện kiểm sát cấp trên tiến hành kiểm sát và quyết định việc kháng nghị nếu phát hiện có vi phạm nghiêm trọng. Ngược lại, Viện kiểm sát cấp trên cũng phải thông báo cho Viện kiểm sát cấp dưới kết quả xét xử phúc thẩm, những vi phạm, thiếu sót trong hoạt động tố tụng của cấp dưới để rút kinh nghiệm và có biện pháp khắc phục.
+ Về quan hệ phối hợp liên ngành: Xây dựng và ban hành quy chế phối hợp giữa Viện kiểm sát nhân dân và cơ quan Tòa án là rất cần thiết cho công tác kiểm sát giải quyết vụ án dân sự trong giai đoạn hiện nay, nó không chỉ giải quyết những khó khăn trong việc chuyển hồ sơ, bản án, quyết định và các văn bản tố tụng khác mà còn đảm bảo cho việc thực hiện các quyền yêu cầu trong tố tụng dân sự. Tăng cường sự phối hợp giữa Tòa án và Viện kiểm sát, mà trực tiếp là giữa Kiểm sát viên và Thẩm phán, để có nhận thức chung đúng đắn về quyền yêu cầu của Viện kiểm sát và trách nhiệm của Tòa án trong việc thực hiện yêu cầu của Viện kiểm sát theo quy định của pháp luật. Khi Tòa án không thực hiện đúng các quy định tại Thông tư 02/2016, Kiểm sát viên cần có sự trao đổi, nhắc nhở, trong trường hợp cần thiết thì tham mưu Lãnh đạo Viện ban hành kiến nghị yêu cầu khắc phục vi phạm.
Bên cạnh đó, Viện kiểm sát, Tòa án cũng cần chủ động phối hợp với Ủy ban nhân dân và các cơ quan chính quyền địa phương trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự. Chỉ riêng Viện kiểm sát, Tòa án hoạt động đơn lẻ trong công tác giải quyết án dân sự mà không có sự phối hợp, hỗ trợ của các cơ quan, tổ chức khác thì sẽ không thể giải quyết tốt án dân sự. Do đó, làm tốt công tác phối hợp giữa Viện kiểm sát, Tòa án và Ủy ban nhân dân sẽ đảm bảo cho việc cung cấp tài liệu, chứng cứ kịp thời.
- Kiến nghị Viện kiểm sát các cấp cần tăng cường thông báo rút kinh nghiệm, tổ chức tập huấn, hướng dẫn nghiệp vụ cho cán bộ, Kiểm sát viên;
- Kiến nghị Viện kiểm sát nhân dân tối cao cần thường xuyên thông báo rút kinh nghiệm, hướng dẫn nghiệp vụ về giải quyết các vụ dân sự, tập hợp những vướng mắc trong thực hiện Bộ luật tố tụng dân sự nói chung và trong thực hiện "quyền yêu cầu" của Viện kiểm sát nói riêng để các Viện kiểm sát địa phương nghiên cứu, rút kinh nghiệm, phát huy vai trò của Viện kiểm sát trong công tác kiểm sát giải quyết án dân sự. Tăng cường tổ chức hội nghị tập huấn, trong đó mở rộng đối tượng tập huấn; tổ chức hội thảo, tọa đàm hoặc tập huấn chuyên sâu, qua đó rút kinh nghiệm thực tiễn để tổng kết lý luận đưa ra những kiến nghị sửa đổi, bổ sung, điều chỉnh hoặc hướng dẫn áp dụng pháp luật. Cụ thể:
+ Bộ Luật tố tụng dân sự năm 2015 và Thông tư liên tịch số 02/2016 ngày 31/8/2016 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao không quy định cụ thể về thời gian Viện kiểm sát được tiếp nhận, nghiên cứu tài liệu, hồ sơ ban đầu cũng như việc sao chụp các tài liệu để nghiên cứu khi cần thiết để thực hiện quyền yêu cầu xác minh thu thập tài liệu chứng cứ. Trong khi đó thời hạn để Viện kiểm sát vừa sao chụp vừa nghiên cứu hồ sơ chỉ có 15 ngày là chưa hợp lý. Vì vậy đã phần nào ảnh hưởng đến chất lượng thực hiện quyền yêu cầu xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ của Viện kiểm sát. Do đó cần sửa đổi, bổ sung kịp thời một số quy định trên để đảm bảo cho Viện kiểm sát thực hiện tốt quyền năng yêu cầu theo đúng quy định của pháp luật.
+ Cần nghiên cứu bổ sung một số quy định đảm bảo việc thực hiện quyền yêu cầu của Viện kiểm sát trong suốt quá trình giải quyết vụ án nhằm tạo điều kiện thực hiện tốt chức năng của ngành cũng như đáp ứng nhu cầu thực tiễn như:quy định Viện kiểm sát trực tiếp xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ trong trường hợp đã yêu cầu nhưng Tòa án không thực hiện … Bổ sung vào thông tư liên ngành giữa Viện kiểm sát - Tòa án quy định về việc trước khi có Quyết định đưa vụ án ra xét xử, trong quá trình thụ lý, giải quyết, định kỳ hàng tháng Tòa án phải chuyển tài liệu, hồ sơ phát sinh để Viện kiểm sát thực hiện quyền yêu cầu nhằm giải quyết vụ án được kịp thời đúng quy đinh pháp luật.

(Tác giả: Vũ Thị Thanh Xuân – VKS Hoa Lư)